Chữ ký số lần đầu được xây dựng năm 1976, sau hơn 25 năm liên tục nghiên cứu và phát triển về công nghệ và luật pháp, hiện nay các quốc gia phát triển đều đã có hạ tầng về công nghệ và khung pháp lý điều chỉnh chữ ký số. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng về chữ ký số dựa trên công nghệ khóa công khai đến nay đã được triển khai rộng khắp tại nhiều nước trên thế giới, tại một số nước hệ thống này được xây dựng với quy mô rất lớn, ví dụ Bộ Quốc phòng Mỹ đã đầu tư 700 triệu USD từ năm 2000 đến 2005 cho riêng hạ tầng PKI của mình . Bên cạnh đó, Hoa Kỳ đưa ra một số quy định về sử dụng chữ ký số như: Luật về chữ ký điện tử trong giao dịch thương mại quốc gia và quốc tế (e-Sign, 2000), luật về giao dịch điện tử thống nhất (UETA), Luật về dịch vụ tài chính (Gramm Leach Billey) và luật về loại bỏ các chứng từ giấy trong giao dịch của cơ quan Nhà nước (Government Paperwork Elimination Act). Những quy định loại này không chỉ khiến các tổ chức phải nhanh chóng đáp ứng các chuẩn giao dịch mà còn tạo ra những cơ hội và thách thức. Việt Nam cũng đã xây dựng xong Luật giao dịch điện tử (2006), Luật công nghệ thông tin (2006) và Nghị định 26/2007/NĐ-CP ngày 15/2/2007 về Chữ ký số & Dịch vụ chứng thực chữ ký số… để từng bước đưa chữ ký số kê khai vào trong các giao dịch điện tử.
Thực tế đã chứng minh việc chậm trễ hoặc không sử dụng chữ ký số cũng có thể đem lại những hậu quả đáng tiếc cho các tổ chức trong thế giới công nghệ hiện nay. Tháng 8 năm 2000, giá cổ phiếu của Emulex Corporation bị tụt giảm 60% do một bài báo giả trên mạng. Sự cố này có thể đã không xảy ra nếu các bài báo của công ty này đều được ký số, khi đó mọi độc giả đều có thể kiểm chứng được tính xác thực của bài báo bằng việc sử dụng khóa công khai của công ty.
Ủy ban của Liên hiệp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) đưa ra Luật mẫu về Chữ ký số năm 2001 (UNCITRAL Model Law on Electronic) làm cơ sở để các nước xây dựng luật và các văn bản điều chỉnh các hoạt động liên quan đến chữ ký số. Đến nay, hầu hết các nước đã có hệ thống luật hoặc quy định điều chỉnh chữ ký số, điển hình gồm
Châu Âu:
- Chỉ thị của Hội đồng và Nghị viện Châu Âu về chữ ký điện tử năm 1999 (Directive 1999/93/EC of the European Parliament and of the Council of 13 December 1999 on a Community framework for electronic signatures). Ngoài ra các nước khác cũng đã xây dựng luật chữ ký điện tử như Áo (2000), Bỉ (2001), CH Séc (2000), Anh (2000), Phần Lan (2003), Đức (2001), Ireland (2000), Italia (2005), Thụy Điển (2000) và Tây Ban Nha (2003); Liên Bang Nga đưa ra Luật Liên bang về Chữ ký số năm 2002 (Federal Law of Russian Federation about Electronic Digital Signature)
Các quốc gia khác cũng đã xây dựng luật về chữ ký điện tử riêng hoặc luật giao dịch điện tử trong đó điều chỉnh về chữ ký điện tử. Điển hình gồm có Trung Quốc, Brazil (2002), Argentina (2006), Ấn Độ (2000), NewZealand (2002), Thụy Sĩ (2003) và Thổ Nhĩ Kỳ (2004).
Thái Lan và Singapore là hai quốc gia Châu Á điển hình đã đưa các quy định về chữ ký số vào trong Luật giao dịch điện tử của mình. Luật Giao dịch điện tử của Singapore gồm 12 Chương, 64 Điều. Trong đó, 6 chương (từ Chương 6 đến Chương 11 gồm 27 điều từ Điều 19 đến Điều 47) và Điều 8, 17, tổng cộng 29 điều quy định về Chữ ký điện tử, chữ ký số và các vấn đề liên quan đến chữ ký số. Luật Giao dịch điện tử của Thái Lan gồm 6 chương và 46 điều, trong đó Chương 2 gồm 7 điều được dành để điều chỉnh về chữ ký điện tử.
Xem thêm : giá dịch vụ chữ ký số, đăng ký chữ ký số hải quan điện tử