Theo nghiên cứu mới nhất, một hợp chất tìm thấy trong trà xanh như trà thái nguyên[/URL] đã cho thấy tiềm năng cho việc điều trị hội chứng Tự kỷ.

Một hợp chất có trong trà thái nguyên gọi là Epigallocatechin Gallate có thể có lợi cho chức năng nhận thức của những người có hội chứng Tự kỷ.

Tiến sĩ Mara Dierssen thuộc Trung tâm Kiểm soát Gen (CRG) ở Barcelona, Tây Ban Nha và các đồng nghiệp đã khám phá ra cách thức của hợp chất epigallocatechin gallate (EGCG) cải thiện chức năng nhận thức của các bệnh nhân có tình trạng này.

Theo các nhà nghiên cứu, nghiên cứu của họ là lần đầu tiên phương pháp điều trị đã cho thấy một số cải tiến trong kỹ năng nhận thức cho những người có hội chứng Tự kỷ.

Theo Hiệp hội Hội chứng Tự kỷ Quốc gia, khoảng 1 trong 691 trẻ sơ sinh ở Hoa Kỳ sinh ra mắc hội chứng Tự kỷ, và có hơn 400.000 người Mỹ sống cùng tình trạng này.

Hội chứng Tự kỷ là tình trạng di truyền phổ biến nhất ở Mỹ, xảy ra khi một cá thể có một bản sao bổ sung một phần hoặc toàn bộ nhiễm sắc thể 21, có nghĩa là họ có ba bản sao của nhiễm sắc thể này, chứ không phải là hai.

Nhiễm sắc thể phụ này dẫn đến sự biểu hiện của các gen, có thể gây ra một số triệu chứng thể chất, bao gồm giảm cơ, đầu nhỏ, tai và miệng, khuôn mặt phẳng và đôi mắt nghiêng về phía trên.

Các cá nhân bị hội chứng Tự kỷ cũng có thể gặp vấn đề về chức năng nhận thức, chẳng hạn như ngôn ngữ và phát triển chậm nói, suy nghĩ và suy giảm trí nhớ, và tập trung kém.

Theo Tiến sĩ Dierssen và các đồng nghiệp, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những suy giảm nhận thức như vậy là giảm biểu hiện của một gen gọi là DYRK1A, và các nghiên cứu trên chuột cho thấy hợp chất EGCG có thể làm giảm DYRK1A trên biểu hiện.

Bây giờ, nghiên cứu mới chỉ ra rằng hợp chất có thể làm tương tự cho những người có hội chứng Tự kỷ, đạt được một sự cải thiện trong chức năng nhận thức. Trong khi đó, một nghiên cứu mới về rối loạn lo âu đã báo cáo rằng phụ nữ và người lớn dưới 35 tuổi thường cảm thấy lo lắng hơn các nhóm khác.

Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng phụ nữ, người trưởng thành trẻ tuổi, và những người có các tình trạng sức khoẻ khác có nhiều nguy cơ bị rối loạn lo âu.

Đặc biệt, các nhà nghiên cứu nói rằng phụ nữ gần như gấp đôi bị ảnh hưởng như nam giới. Sự khác biệt này không thay đổi theo thời gian.

Mục đích của tổng quan này là để hiểu được tỷ lệ hiện mắc của rối loạn lo âu trong cả công chúng cũng như giữa các nhóm cụ thể của người dân.

Tác giả đầu tiên là Olivia Remes, thuộc Đại học Cambridge, Hoa Kỳ, cho biết: "Các rối loạn lo âu có thể làm cho cuộc sống vô cùng khó khăn đối với một số người và điều quan trọng đối với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ của chúng tôi là hiểu rõ họ thường gặp và những nhóm người nào có nguy cơ cao nhất".

Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa bệnh tật (CDC), rối loạn lo âu là loại rối loạn tâm thần phổ biến nhất hiện nay trong dân chúng nói chung. Các ví dụ về rối loạn lo âu bao gồm rối loạn căng thẳng sau chấn thương, chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) và rối loạn lo âu xã hội.

CDC ước tính rằng tỷ lệ hiện mắc của chứng rối loạn lo âu là hơn 15 phần trăm.

Các triệu chứng điển hình của chứng rối loạn lo âu bao gồm lo lắng, căng thẳng, mệt mỏi và sợ hãi. Những triệu chứng này có thể ngăn cản mọi người giữ được các thói quen hàng ngày của họ. Các tác giả nghiên cứu báo cáo rằng chi phí hàng năm của những chứng rối loạn này đối với Hoa Kỳ ước đạt 42,3 tỷ đô la.

Nhiều nghiên cứu khoa học đã xem xét những ảnh hưởng của chứng trầm cảm so với những ảnh hưởng của sự lo lắng, mặc dù tác động này đối với xã hội. Cuộc duyệt xét mới, được xuất bản trong cuốn Brain and Behavior, nhằm mục đích làm rõ hơn về lĩnh vực nghiên cứu này.