Thế nào là miễn hình phạt?

Căn cứ theo Điều 59 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy đinh: “Người phạm tội sở hữu thể được miễn hình phạt nếu như thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản hai Điều 54 của Bộ luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn bổn phận hình sự.”

Để hiểu rõ thế nào là miễn hình phạt trong pháp luật hình sự trạng sư – công ty Luật TGS đưa ra định nghĩa cụ thể như sau: “Miễn hình phạt là việc Tòa án không buộc người hoặc pháp nhân thương nghiệp phạm tội phải chịu hình phạt về tù mà người hoặc pháp nhân thương nghiệp đó đã thực hiện hành vi phạm tội, lúc sở hữu đủ những điều kiện do luật định.”

Căn cứ pháp lý


Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017;
Căn cứ những Điều 51, Điều 54, Điều 59, Điều 88 và Điều 390 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017;


Phân tách những quy định về miễn hình phạt

Theo Điều 59, người bị kết án với thể được miễn hình phạt nếu như thỏa mãn những điều kiện sau: Phải thuộc trường hợp quy định tại khoản một và khoản 2 Điều 54 của BLHS năm 2015 (tức là người phạm tội phải mang ít ra hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản một Điều 51 BLHS năm 2015 và phải là người giúp sức, phạm tội lần đầu trong vụ án đồng phạm mà sở hữu vai trò ko đáng kể); người phạm tội đáng được khoan hồng đặc trưng và người phạm tội chưa tới mức được miễn bổn phận hình sự. Như vậy, theo quy định của BLHS năm 2015 thì khi người phạm tội phải thỏa mãn điều kiện được quy định tại khoản 1 và khoản hai của Điều 54 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, thì đương nhiên được miễn hình phạt.

Theo Điều 88 BLHS năm 2015 thì: “Pháp nhân thương nghiệp phạm tội có thể được miễn hình phạt khi đã khắc phục đầy đủ hậu quả và đã đền bù đông đảo thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra”.

Điều 390 BLHS năm 2015 quy định: Khoản hai Điều 390 chỉ rõ: “Người không khiếu nại nếu như đã với hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tù túng, thì có thể được miễn phận sự hình sự hoặc miễn hình phạt”.

Luật sư – doanh nghiệp Luật TGS đưa ra 1 số nhận xét như sau:

Thứ nhất, phương pháp quy định về miễn hình phạt theo Điều 59 của BLHS chưa hợp lý dẫn tới những bí quyết hiểu khác nhau. Đấy là, nội dung Điều 59 nêu các điều kiện để được miễn hình phạt nhưng lại dẫn chiếu điều kiện này gián tiếp qua điều luật khác là Điều 54 quy định về quyết định hình phạt dưới mức tốt nhất của khung hình phạt; trong khoảng đó, tiếp tục dẫn chiếu sang khoản một Điều 51 BLHS năm 2015, rồi lại dẫn chiếu ngược trở lại để xem mang đáp ứng đủ điều kiện hay ko.

như vậy, bí quyết xây dựng này của nhà làm cho luật đã gây nên sự khó hiểu và gặp gặp trắc trở trong thực tế áp dụng.

Thứ hai, xét về điều kiện thứ nhất để được miễn hình phạt trong Điều 59, “người phạm tội với thể được miễn hình phạt ví như thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54”, thì việc tiêu dùng trong khoảng “và” như quy định ngày nay sẽ được hiểu là Điều 59 chỉ xác định 01 trường hợp miễn hình phạt, đấy là người bị kết án mang đủ những điều kiện quy định ở khoản một và khoản hai Điều 54 BLHS năm 2015. Cách hiểu như vậy đã thu hẹp phạm vi miễn hình phạt đối có người bị kết án, theo ấy, ngoài những điều kiện người bị kết án phải có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ TNHS, đáng được khoan hồng đặc thù thì họ còn phải là người phạm tội lần đầu và là người giúp sức trong vụ án đồng phạm mang vai trò ko đáng nhắc.

như vậy, việc miễn hình phạt sẽ chỉ được ứng dụng trong các vụ án sở hữu đồng phạm, trong khi có các vụ án chỉ sở hữu 1 bị cáo nhưng tính chất, mức độ hiểm nguy của hành vi phạm tội và những tình tiết khác của vụ án miêu tả việc áp dụng hình phạt đối có người phạm tội là ko cần phải có thì họ lại không được miễn hình phạt.

Thứ ba, quy định miễn hình phạt tại Điều 390 của BLHS năm 2015 vẫn còn chung chung, chưa rõ về việc xác định thế nào là hành động can ngăn, tránh tác hại của tù. Hơn nữa, trong điều luật này còn quy định chung điều kiện để người ko tố giác tù túng được miễn hình phạt hoặc miễn TNHS.

như vậy, chưa có sự phân biệt rõ trường hợp nào thì miễn hình phạt, trường hợp nào được miễn TNHS, bởi lẽ, mức độ đáng thừa hưởng sự khoan hồng của người phạm tội được miễn TNHS so có người được miễn hình phạt là khác nhau.

Nếu có gì thắc mắc hay chưa hiểu rõ về luật. Bạn hãy vui lòng liên hệ Tổng đài 1900.8698 để được các luật sư Tgs tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 Hoặc truy cập Website: https://tgslaw.vn/luat-su-bao-chua-gioi.html
Bài viết khác cùng Box