Việc thu “phí bản quyền” đối với các tác phẩm âm nhạc được sử dụng tại các quán karaoke hiện đang gặp rất nhiều khó khăn do vấp phải sự phản ứng từ các cơ sở kinh doanh karaoke. Vậy những nguyên nhân nào gây nên tình trạng này?

Theo thống kê của Trung tâm ứng dụng công nghệ khai thác quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), trên cả nước có khoảng 5.500 cơ sở kinh doanh karaoke có phép với số lượng 38.500 phòng (trung bình 7 phòng/địa điểm kinh doanh). Doanh thu tiền giờ tại các địa điểm kinh doanh này ước tính khoảng 708 tỷ VND/tháng. Tuy nhiên, hiện chưa có con số thống kê về số tiền mà các cơ sở kinh doanh karaoke này đã và đang chi trả cho tiền thù lao, nhuận bút (phí bản quyền) cho việc khai thác kinh doanh các bản ghi tại nền tảng karaoke

Hiện, tại Việt Nam có ít nhất 2 đơn vị đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan là Trung tâm Bảo vệ Quyền tác giả âm nhạc Việt Nam (VCPMC) và Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Việt Nam (RIAV) tiến hành việc thu phí tác quyền đối với các tác phẩm âm nhạc, bản ghi do các đơn vị này được uỷ quyền của chủ sở hữu bản quyền. Việc thu “phí bản quyền” đối với các tác phẩm âm nhạc được sử dụng tại các quán karaoke hiện đang gặp rất nhiều khó khăn do vấp phải sự phản ứng từ các cơ sở kinh doanh karaoke. Vì vậy, không thể tránh khỏi tình trạng thất thu “phí bản quyền” đối với lĩnh vực kinh doanh karaoke.

Bà Huỳnh Như - Trung tâm ứng dụng công nghệ khai thác quyền Sở hữu trí tuệ cho rằng, có nhiều lý do dẫn đến việc thu “phí bản quyền” gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân đầu tiên là sự “lầm tưởng” của các đơn vị kinh doanh karaoke. Các cơ sở kinh doanh karaoke thường hay cho rằng chỉ các đơn vị sản xuất đầu máy karaoke mới có nghĩa vụ thanh toán tiền thù lao, nhuận bút cho chủ sở hữu bản quyền. Vì vậy, các đơn vị kinh doanh karaoke khi mua đầu máy có tích hợp sẵn các tác phẩm âm nhạc, bản ghi đã được các đơn vị sản xuất đầu máy karaoke thanh toán nên không có nghĩa vụ thanh toán phí bản quyền. Tag: mau karaoke gia re

Nguyên nhân tiếp theo là do có nhiều đơn vị thực hiện thu phí bản quyền dẫn đến chồng chéo, không phân định rõ quyền của chủ sở hữu bản quyền. Hiện nay, khi khai thác, kinh doanh một tác phẩm âm nhạc, bản ghi tại nền tảng karaoke thì cơ sở kinh doanh phải thanh toán: Quyền tác giả (VCPMC, tác giả- chủ sở hữu quyền tác giả, các tổ chức được uỷ quyền…), quyền liên quan (RIAV, IFPI, Universal, Sony, ca sỹ, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình…). Hiện tai, việc thu của các đơn vị còn chồng chéo, một tác phẩm âm nhạc, bản ghi có thể do nhiều đơn vị thu, các đơn vị kinh doanh không rõ sẽ chi trả tiền thù lao, nhuận bút này cho đơn vị nào là hợp lệ.


Bên cạnh đó, việc thu phí cũng do các đơn vị thu dựa trên hình thức thu khoán và biểu giá do chính các đơn vị này ban hành. Ví dụ như: về quyền tác giả thì biểu giá của VCPMC là 2.500.000 đồng/phòng/năm, trong khi quyền liên quan thì biểu giá của RIAV là 2.000 đồng/bài/năm. Điều này gây ra sự phản ứng cho các đơn vị kinh doanh khi việc thu khoán sẽ dẫn đến trường hợp là có những bài hát quán không sử dụng thì vẫn tính bằng với những bài hát được sử dụng liên tục, trong tổng 10.000 bài trong đầu karaoke vẫn buộc phải thanh toán hết 10.000 bài mà không có cơ chế phân định, nhận dạng những bài không sử dụng thì không phát sinh lượt khai thác thì cơ sở nào để thanh toán. Tag: mau phong karaoke gia re

Nguyên nhân cuối cùng là việc thực thi quy định của pháp luật về bản quyền karaoke từ các cơ quan Nhà nước. Theo đó, hiện nay chưa có mức giá chung được áp dụng đồng nhất cho các đơn vị kinh doanh karaoke khi khai thác và sử dụng bản quyền các bản ghi dẫn đến việc mỗi đơn vị thu một kiểu. Bên cạnh đó, việc áp dụng chế tài xử phạt tiền và gỡ bỏ bản ghi vi phạm còn gặp nhiều khó khăn như phải có bằng chứng về hành vi vi phạm của các đơn vị kinh doanh.

Tuy nhiên, thực tế việc thu thập bằng chứng này không hề đơn giản như: việc lập biên bản đòi hỏi phải có ghi nhận về hành vi vi phạm nhưng tại thời điểm kiểm tra cũng khó xác định đơn vị kinh doanh sử dụng những bản ghi của ai, đã thanh toán hay chưa thanh toán cho chủ sở hữu bản quyền. Ngoài ra, việc kiểm tra cũng đòi hỏi phải có nhân sự kiểm tra, nhưng thực tế nhân sự để kiểm tra lĩnh vực này không có nhiều. Chính vì vậy việc xử phạt các đơn vị kinh doanh này hầu như rất ít.

Để khắc phục những khó khăn trên và giúp cho việc thu phí bản quyền được thực hiện dễ dàng hơn, theo đại diện Trung tâm ứng dụng công nghệ khai thác quyền SHTT, cần thực hiện một số giải pháp như sau:

Trước tiên cần tuyên truyền, vận động để thay đổi nhận thức của các đon vị kinh doanh karaoke. Để tuyên truyền đạt hiệu quả cần có các buổi tham luận có sự kết hợp giữa các đơn vị phân phối, tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan và cơ quan nhà nước ban ngành để tuyên truyền các quy định về bản quyền cũng như có hướng giải pháp thích hợp cho các đơn vị kinh doanh trong việc thực thi các quy định pháp luật về bản quyền.

Ngoài ra, cần có sự phối hợp của các cơ quan Nhà nước trong việc thực thi, kiểm soát việc khai thác bản quyền của các đon vị karaoke. Chỉ khi có sự tham gia của các Cơ quan nhà nước thì các quy định hoặc việc thu tiền phí bản quyền của các đơn vị phân phối, tổ chức đại diện mới được các đơn vị kinh doanh tuân thủ. Tag: mau phong karaoke

Tiếp đến cần xây dựng và điều chỉnh cơ chế thu, phân phối và mức phí sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan hợp lý, phù hợp với số đông để đảm bảo lợi ích của chủ thể quyền cân bằng với quyền tiếp cận nghệ thuật của công chúng. Một mức phí hợp lý được đa số các đơn vị sử dụng, phân phối nhạc chấp thuận cũng vẫn đem lại nguồn thu lớn cho các chủ thể quyền đồng thời đảm bảo sức lan tỏa của tác phẩm trong công chúng.

Cuối cùng, cần có công cụ quản lý về tần suất, lượt khai thác các bản ghi được tích trữ sẵn trong các đầu máy karaoke. Một công cụ mang tính giải pháp có thể được tích hợp sẵn trong các đầu máy karaoke để có thể ghi nhận lại số liệu các lượt khai thác của bản ghi. Hàng quý hoặc hàng năm, số liệu này sẽ được báo cáo đến các đơn vị có liên quan trên thị trường để các đơn vị nhận dạng các bài hát thuộc quyền phân phối hoặc nhận ủy quyền của chủ sở hữu bản quyền và yêu cầu các đơn vị kinh doanh phải thanh toán số tiền này. Có như vậy, thì mới thể hiện rõ được tính minh bạch và công khai trong việc thu phí bản quyền từ các đơn vị, tổ chức kinh doanh khai thác sử dụng và chi đúng, đầy đủ cho chủ sở hữu bản quyền dựa trên tình hình thực tế khai thác bản ghi của từng chủ sở hữu.

Nguồn: phapluatxahoi.vn